Nghệ an là gì? Các công bố khoa học về Nghệ an
Nghệ An là một tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, nằm ở vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ. Tỉnh này có diện tích khoảng 16.492 km² và dân số khoảng 3,1 triệu người. Nghệ...
Nghệ An là một tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, nằm ở vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ. Tỉnh này có diện tích khoảng 16.492 km² và dân số khoảng 3,1 triệu người. Nghệ An được biết đến với các đặc điểm văn hóa, lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như đền Hùng - nơi diễn ra lễ hội đền Hùng hàng năm, bãi biển Cửa Lò, vườn quốc gia Pù Mát, chùa Kim Liên - nơi sinh sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và nhiều di tích lịch sử khác.
Nghệ An có vị trí địa lý quan trọng, nằm ở giữa miền Trung Việt Nam và gần biên giới Lào. Tỉnh này giáp các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Laos và biển Đông.
Về phân cấp hành chính, Nghệ An có 21 huyện, thành phố Vinh là trung tâm hành chính của tỉnh.
Nghệ An có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa, cây lương thực, cao su, điều và ngành chăn nuôi. Tỉnh này cũng có tiềm năng phát triển du lịch với các di sản lịch sử và danh lam thắng cảnh. Nghệ An là quê hương của người tướng quân Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều nhà văn, danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Điểm du lịch nổi tiếng ở Nghệ An bao gồm:
- Đền Hùng: Nơi diễn ra lễ hội đền Hùng hàng năm và là địa điểm quần thể di tích lịch sử, văn hóa quan trọng của dân tộc Việt Nam.
- Bãi biển Cửa Lò: Một trong những bãi biển đẹp nhất miền Trung Việt Nam, thu hút khách du lịch với cát vàng, biển xanh.
- Vườn quốc gia Pù Mát: Là một khu di sản thiên nhiên với hệ động, thực vật phong phú và địa hình núi non hoang sơ.
- Chùa Kim Liên: Là nơi sinh sống và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1921 đến 1931.
- Mường Thanh Diên Châu: Là một phế tích di tích của vương triều Đông Sơn, mang giá trị lịch sử và văn hóa.
Nghệ An cũng nổi tiếng với ẩm thực đặc sản như chả cá Cửa Lò, bánh mướt, chè lam, giò me và rượu can.
Nghệ An là một tỉnh có văn hóa đặc trưng và lịch sử lâu đời. Tỉnh này được chia thành 21 huyện và thành phố Vinh. Vinh là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và công nghiệp của Nghệ An.
Nghệ An có nhiều di tích lịch sử quan trọng, trong đó đền Hùng được coi là trung tâm văn hóa, tín ngưỡng và du lịch của tỉnh. Đền Hùng là nơi tổ chức lễ hội đền Hùng, một trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của người Việt Nam, diễn ra vào ngày lễ Hùng Vương - ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Ngoài ra, Nghệ An còn có nhiều di tích khác như đền Thiên Đức, đền Lăng, đền Lầu, di tích Kim Liên và di tích Quang Trung.
Về danh lam thắng cảnh, Nghệ An có bãi biển Cửa Lò, một trong những bãi biển đẹp và nổi tiếng ở miền Trung Việt Nam. Bãi biển này có cát trắng, nước biển trong xanh và là địa điểm lý tưởng để thư giãn và tắm biển. Bên cạnh đó, Nghệ An còn có đèo Mỹ Lý, cung đình Cổ Lạc, hồ Khe Rông và các vườn quốc gia như vườn quốc gia Pù Mát và vườn quốc gia Cước Đá.
Về văn hóa, Nghệ An có những nét văn hóa truyền thống phong phú. Dân ca Nghệ Tĩnh là một trong những hình thức âm nhạc truyền thống nổi tiếng của tỉnh này. Nghệ An còn nổi tiếng với nghề dệt lụa, gốm sứ và điêu khắc đá. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Nghệ An thường được biểu thị trong các triển lãm và sự kiện văn hóa.
Bên cạnh đó, Nghệ An còn là quê hương của nhiều nhân vật lịch sử và văn hóa nổi tiếng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sinh sống và hoạt động ở làng Kim Liên trong các năm từ 1921 đến 1931. Tại làng Kim Liên, khách du lịch có thể thăm nhà cổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tìm hiểu về cuộc sống và công
Dân tộc Kinh chiếm đa số dân số ở Nghệ An, nhưng tỉnh này cũng có sự đa dạng dân tộc với các cộng đồng dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Tày, H'Mông, Dao, Khơ Mú, Lào, Chứt và Kỳ.
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, Nghệ An cũng đang phát triển kinh tế mạnh mẽ. Nông nghiệp là ngành công nghiệp chính của tỉnh, với trồng lúa, cây lương thực và các loại cây công nghiệp như cao su và điều. Nghệ An cũng có nhiều ngành công nghiệp phụ trợ như chế biến gỗ, dệt may, sản xuất đồ gốm và đá, thực phẩm chế biến và du lịch.
Trong tỉnh Nghệ An, một số đặc sản nổi tiếng bao gồm chả cá Cửa Lò, bánh mướt, chè lam, giò me và rượu can. Những đặc sản này mang hương vị đặc trưng của vùng đất Nghệ An và có giá trị văn hóa cao.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nghệ an":
Hệ thống máy tính không thể cải thiện hiệu suất tổ chức nếu chúng không được sử dụng. Thật không may, sự kháng cự từ người quản lý và các chuyên gia đối với hệ thống đầu cuối là một vấn đề phổ biến. Để dự đoán, giải thích và tăng cường sự chấp nhận của người dùng, chúng ta cần hiểu rõ hơn tại sao mọi người chấp nhận hoặc từ chối máy tính. Nghiên cứu này giải quyết khả năng dự đoán sự chấp nhận máy tính của mọi người từ một thước đo ý định của họ, và khả năng giải thích ý định của họ dựa trên thái độ, quy chuẩn chủ quan, giá trị sử dụng cảm nhận, sự dễ dàng sử dụng cảm nhận và các biến liên quan. Trong một nghiên cứu dài hạn trên 107 người dùng, ý định sử dụng một hệ thống cụ thể, được đo lường sau một giờ giới thiệu về hệ thống, có tương quan 0.35 với việc sử dụng hệ thống 14 tuần sau đó. Tương quan giữa ý định và việc sử dụng là 0.63 vào cuối thời gian này. Giá trị sử dụng cảm nhận ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý định của mọi người, giải thích hơn một nửa sự biến thiên trong ý định vào cuối 14 tuần. Sự dễ dàng sử dụng cảm nhận cũng có tác động nhỏ nhưng có ý nghĩa đến ý định, mặc dù hiệu ứng này giảm dần theo thời gian. Thái độ chỉ một phần nào đó trung gian hóa những ảnh hưởng của những niềm tin này đối với ý định. Quy chuẩn chủ quan không có tác động đến ý định. Những kết quả này gợi ý khả năng về những mô hình đơn giản nhưng mạnh mẽ của các yếu tố quyết định sự chấp nhận của người dùng, có giá trị thực tiễn trong việc đánh giá các hệ thống và hướng dẫn các can thiệp của quản lý nhằm giảm thiểu vấn đề công nghệ máy tính không được sử dụng hết.
Nghiên cứu hiện tại phát triển và kiểm tra một mô hình lý thuyết mở rộng của Mô Hình Chấp Nhận Công Nghệ (TAM) nhằm giải thích sự hữu ích cảm nhận và ý định sử dụng dựa trên ảnh hưởng xã hội và các quá trình nhận thức công cụ. Mô hình mở rộng, gọi là TAM2, đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng dữ liệu theo chiều dọc thu thập được từ bốn hệ thống khác nhau tại bốn tổ chức (N = 156), trong đó hai hệ thống có tính chất sử dụng tự nguyện và hai hệ thống bắt buộc. Các cấu trúc mô hình được đo lường tại ba thời điểm tại mỗi tổ chức: trước khi triển khai, một tháng sau khi triển khai, và ba tháng sau khi triển khai. Mô hình mở rộng nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ cho cả bốn tổ chức ở cả ba thời điểm đo lường, chiếm tới 40%–60% sự biến thiên trong cảm nhận về tính hữu ích và 34%–52% sự biến thiên trong ý định sử dụng. Cả hai quá trình ảnh hưởng xã hội (chuẩn mực chủ quan, tính tự nguyện, và hình ảnh) và các quá trình nhận thức công cụ (liên quan đến công việc, chất lượng kết quả, khả năng chứng minh kết quả, và cảm nhận về sự dễ sử dụng) đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự chấp nhận của người sử dụng. Những phát hiện này nâng cao lý thuyết và đóng góp vào cơ sở cho nghiên cứu trong tương lai nhằm cải thiện việc hiểu biết về hành vi chấp nhận của người dùng.
Làm thế nào chúng ta nên hiểu tại sao doanh nghiệp tồn tại? Một quan điểm phổ biến đã cho rằng chúng nhằm kiểm soát chi phí giao dịch phát sinh từ động lực tự lợi của cá nhân. Trong bài viết này, chúng tôi phát triển luận điểm rằng điều mà doanh nghiệp làm tốt hơn thị trường là chia sẻ và chuyển tải kiến thức của cá nhân và nhóm trong một tổ chức. Kiến thức này bao gồm thông tin (ví dụ: ai biết cái gì) và kỹ năng (ví dụ: làm thế nào để tổ chức một nhóm nghiên cứu). Điều cốt lõi trong luận điểm của chúng tôi là kiến thức được giữ bởi cá nhân, nhưng cũng được biểu hiện qua quy luật mà các thành viên hợp tác trong một cộng đồng xã hội (tức là nhóm, tổ chức, hoặc mạng lưới). Nếu kiến thức chỉ được giữ ở cấp độ cá nhân, thì doanh nghiệp có thể thay đổi chỉ bằng việc thay đổi nhân viên. Bởi vì chúng ta biết rằng thuê nhân sự mới không tương đương với việc thay đổi kỹ năng của doanh nghiệp, việc phân tích những gì doanh nghiệp có thể làm phải hiểu biết kiến thức như là nhúng trong nguyên tắc tổ chức mà con người hợp tác trong các tổ chức.
Dựa trên thảo luận này, một nghịch lý được xác định: những nỗ lực của doanh nghiệp để mở rộng bằng cách nhân bản công nghệ của mình tăng cường khả năng bắt chước. Bằng cách xem xét làm thế nào doanh nghiệp có thể ngăn chặn bắt chước bằng sự sáng tạo, chúng tôi phát triển một cái nhìn năng động hơn về cách các doanh nghiệp tạo ra kiến thức mới. Chúng tôi xây dựng quan điểm năng động này bằng cách đề xuất rằng doanh nghiệp học những kỹ năng mới bằng cách kết hợp lại các khả năng hiện có của mình. Bởi vì các cách hợp tác mới không dễ dàng được thu nhận, sự tăng trưởng xảy ra bằng cách xây dựng trên các mối quan hệ xã hội hiện có trong một doanh nghiệp. Những gì một doanh nghiệp đã làm trước đây có xu hướng dự đoán những gì nó có thể làm trong tương lai. Theo nghĩa này, kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp cung cấp các lựa chọn để mở rộng vào các thị trường mới nhưng không chắc chắn trong tương lai.
Chúng tôi thảo luận chi tiết ví dụ về quyết định sản xuất/mua và đề xuất một số giả thuyết có thể kiểm chứng về ranh giới của doanh nghiệp, mà không cần viện đến khái niệm "cơ hội."
Nhiều phương pháp giảng dạy mặc nhiên cho rằng kiến thức khái niệm có thể được trừu xuất từ các tình huống mà nó được học và sử dụng. Bài viết này lập luận rằng giả định này không thể tránh khỏi việc hạn chế hiệu quả của các phương pháp như vậy. Dựa trên nghiên cứu mới nhất về nhận thức trong hoạt động hàng ngày, các tác giả lập luận rằng kiến thức là định vị, là một phần sản phẩm của hoạt động, bối cảnh và văn hóa nơi nó được phát triển và sử dụng. Họ thảo luận về việc quan điểm này ảnh hưởng đến sự hiểu biết của chúng ta về học tập như thế nào, và họ nhận thấy rằng trường học truyền thống quá thường xuyên bỏ qua tầm ảnh hưởng của văn hóa trường học lên những gì được học ở trường. Như một giải pháp thay thế cho các thực tiễn truyền thống, họ đề xuất học nghề nhận thức (Collins, Brown, & Newman, đang chuẩn bị xuất bản), mở rộng đặc trưng bản chất định vị của kiến thức. Họ xem xét hai ví dụ về giảng dạy toán học thể hiện những đặc điểm chính của cách tiếp cận này đối với giảng dạy.
Mô hình Chấp Nhận Công Nghệ và hai biến thể của Lý Thuyết Hành Vi Kế Hoạch đã được so sánh để đánh giá mô hình nào giúp hiểu biết tốt hơn về việc sử dụng công nghệ thông tin. Các mô hình đã được so sánh sử dụng dữ liệu sinh viên thu thập từ 786 người dùng tiềm năng của trung tâm tài nguyên máy tính. Dữ liệu hành vi dựa trên việc giám sát 3.780 lượt truy cập vào trung tâm tài nguyên trong suốt 12 tuần. Phân tích phương pháp bình quân trọng số cho thấy tất cả ba mô hình đều hoạt động tốt về mặt độ phù hợp và đều tương đương về khả năng giải thích hành vi. Việc phân tách các cấu trúc niềm tin trong Lý Thuyết Hành Vi Kế Hoạch đã mang lại một sự gia tăng vừa phải trong việc giải thích ý định hành vi. Tổng thể, kết quả cho thấy Lý Thuyết Hành Vi Kế Hoạch đã được phân tách cung cấp một hiểu biết toàn diện hơn về ý định hành vi bằng cách tập trung vào các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến việc sử dụng hệ thống thông qua việc áp dụng cả chiến lược thiết kế và triển khai.
Một bằng chứng gián tiếp được trình bày về khả năng chế tạo các dây lượng tử Si tự do mà không cần sử dụng kỹ thuật lắng đọng epitaxial hoặc quang khắc. Phương pháp mới này sử dụng các bước hòa tan hóa học và điện hóa để tạo ra mạng lưới các dây riêng biệt từ các tấm wafer số lượng lớn. Các lớp Si xốp có độ xốp cao thể hiện sự phát quang màu đỏ có thể nhìn thấy ở nhiệt độ phòng, có thể quan sát bằng mắt thường dưới ánh sáng laser xanh hoặc xanh lam không tập trung <1 mW (<0.1 W cm−2). Điều này được cho là do hiệu ứng kích thước lượng tử hai chiều đáng kể có thể tạo ra sự phát xạ xa trên băng thông của Si tinh thể khối.
Trong bối cảnh dịch bùng phát liên tục của coronavirus mới xuất hiện gần đây (2019-nCoV), các phòng thí nghiệm y tế công cộng đang gặp phải thách thức do chưa có được các mẫu virus cách ly, trong khi ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy dịch bệnh lan rộng hơn so với dự đoán ban đầu và sự lây lan quốc tế qua khách du lịch đang xảy ra.
Chúng tôi đặt mục tiêu phát triển và triển khai một phương pháp chẩn đoán mạnh mẽ để sử dụng trong môi trường phòng thí nghiệm y tế công cộng mà không cần có sẵn mẫu virus thực tế.
Chúng tôi trình bày một quy trình chẩn đoán được xác thực cho 2019-nCoV, với thiết kế dựa trên quan hệ gen gần gũi của 2019-nCoV với coronavirus SARS, tận dụng công nghệ axit nucleic tổng hợp.
Quy trình này phát hiện chính xác 2019-nCoV và phân biệt 2019-nCoV với SARS-CoV. Thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập, chúng tôi đã xác nhận tính độc quyền của kết quả thử nghiệm dựa trên 297 mẫu lâm sàng gốc có chứa đầy đủ phổ virus đường hô hấp ở người. Vật liệu kiểm soát được cung cấp thông qua European Virus Archive – Global (EVAg), một dự án cơ sở hạ tầng của Liên minh Châu Âu.
Nghiên cứu hiện tại chứng minh năng lực phản ứng mạnh mẽ đạt được thông qua sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm học thuật và công lập trong các mạng lưới nghiên cứu quốc gia và châu Âu.
Trong công trình này, chúng tôi mô tả ngắn gọn những đặc điểm nổi bật nhất của WSXM, một phần mềm miễn phí cho viển thám hiển vi dựa trên hệ điều hành MS-Windows. Bài báo được cấu trúc thành ba phần khác nhau: Phần giới thiệu là một cái nhìn tổng quan về tầm quan trọng của phần mềm trong viển thám hiển vi. Phần thứ hai được dành riêng để mô tả cấu trúc tổng quát của ứng dụng; trong phần này, những khả năng của WSXM để đọc các tệp bên thứ ba được nhấn mạnh. Cuối cùng, một cuộc thảo luận chi tiết về một số quy trình quan trọng của phần mềm được thực hiện.
Các giai đoạn đầu tiên của quá trình hấp thụ peroxidase cây cải đuôi tiêm tĩnh mạch trong các ống thận gần của chuột đã được nghiên cứu bằng một kỹ thuật cytochemical cấu trúc siêu vi mới. Ở những con vật bị giết chỉ 90 giây sau khi tiêm, sản phẩm phản ứng được tìm thấy trên màng bờ chải và trong các chỗ hõm ống ở đỉnh. Từ các cấu trúc này, nó được vận chuyển đến các không bào đỉnh, nơi nó được tập trung dần để hình thành các giọt hấp thu protein. Phương pháp này, sử dụng 3,3'-diaminobenzidine làm chất nền có thể oxi hóa, cho phép định vị sắc nét và có độ nhạy cao. Hệ thống này rất thuận lợi trong việc nghiên cứu các giai đoạn đầu tiên của việc hấp thu protein qua ống thận, vì lượng nhỏ protein trên màng và trong ống cũng như các túi có thể dễ dàng phát hiện. Phương pháp này cũng cho thấy tiềm năng trong việc nghiên cứu sự vận chuyển protein ở nhiều loại tế bào và mô khác nhau.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10